Tác dụng của chính sách ngụ binh ư nông là gì

Chính sách ngụ binh ư nông là gì? Tác dụng của chính sách ngụ binh ư nông là gì? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau nhé:

Chính sách ngụ binh ư nông là gì?

Ngụ binh ư nông là một chính sách được sử dụng ở thời phong kiến nước ta, có nghĩa là sẽ cho các binh lính thay phiên nhau về làm ruộng ở thời bình, nhưng khi có chiến tranh sẽ huy động tất cả đi chiến đấu. Việc áp dụng chính sách này giúp vừa đảm bảo được năng lực chiến đấu của binh lính, vừa có khả năng phát triển đất nước, tăng gia sản xuất. Đây là một chính sách xây dựng lực lượng quân sự thời phong kiến khá hiệu quả với việc phân bố lực lượng một cách hợp lý. 

Chính sách ngụ binh ư nông là một chính sách xây dựng quân đội gắn liền với nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Với bối cảnh của một thời kì mà nước ta vẫn gặp phải nhiều khó khăn về nguồn lương thực ổn định và dự trữ nên cần có thêm nhiều người tham gia vào hoạt động này để có thể mở rộng phạm vi và quy mô của hoạt động sản xuất nông nghiệp. Chính sách này đã phản ánh tư duy nông binh bất phân, đâu có dân là có quân. Nó cũng gắn liền việc thể hiện tình yêu nước đến toàn thể nhân dân, chỉ cần là người dân Việt Nam đều có ý thức và khát khao gìn giữ độc lập của dân tộc nên luôn cố gắng để hoàn thành được cả việc đánh giặc và sản xuất. Chính sách ngụ binh ư nông thời đó cũng phù hợp với việc xây dựng quốc phòng với một quốc gia không rộng lớn, lực lượng còn mỏng, góp phần vừa duy trì sự sống, vừa cải thiện đất nước thoát khỏi đói nghèo, vừa đánh đuổi giặc ngoại xâm để bảo vệ độc lập.

Tác dụng của chính sách ngụ binh ư nông 1

Lịch sử ra đời của chính sách Ngụ binh ư nông

Lần đầu tiên chính sách ngụ binh ư nông được áp dụng vào thời nhà Đinh. Chính sách này được áp dụng cho tới thời Lê sơ. 

Bắt đầu ở thời nhà Lý, quân đội nước ta được xây dựng chính quy và có sự phân cấp, điều này giúp cho quân đội được xây dựng một cách quy củ và có hiệu quả hơn, điều này vẫn có giá trị và được ứng dụng chọn lọc đến ngày nay. Với việc chia cụ thể thành quân triều đình và quân địa phương để có thể phân bố lực lượng một cách đồng đều, đảm bảo ở vùng lãnh thổ nào cũng có quân và dân, giúp nâng cao khả năng giữ vững bờ cõi. Cấm quân sẽ được tuyển chọn từ những thanh niên khoẻ ở cả nước để làm nhiệm vụ bảo vệ vua và kinh thành. Việc tuyển chọn này phải đảm bảo cho chất lượng lực lượng được phân bổ đều, không chỉ dồn hết sức mạnh vào quân đội triều đình mà bỏ qua quân đội của địa phương. Bởi vậy, quân địa phương sẽ được tuyển chọn từ những thanh niên trai tráng ở các làng xã khi đến tuổi thành đinh và làm nhiệm vụ canh phòng ở các lộ, phủ. Điều này vừa đảm bảo được cho việc đi lính, vừa làm được các công việc ở gần. Chính sách ngụ binh ư nông triều nhà Lý thi hành đó là cho quân sĩ luân phiên nhau về cày ruộng và các thanh niên có đăng kí tên vào sổ nhưng vẫn ở tại gia để sản xuất. Tuy nhiên, khi có việc cần thì triều đình sẽ huy động. Điều đó giúp các sức mạnh được khai thác một cách hiệu quả bởi có các công việc nông nghiệp cũng cần nhiều tới sức mạnh và lúc đó người lính có thể đảm nhận công việc đó để mang đến chất lượng công việc tốt hơn, giúp hoạt động tăng gia sản xuất có hiệu quả cao. Bên cạnh đó, kỉ luật của quân đội cũng rất nghiêm minh và cùng với các quy định rất nghiêm ngặt. Điều này giúp cho việc thực hiện các chế độ rèn luyện sức mạnh, ý chí được đảm bảo để có thể tăng cường sức mạnh khi có chiến tranh xảy ra. 

Tới thời nhà Tần thì bên cạnh quân triều đình và quân địa phương còn có thêm quân của các vương hầu, thế nhưng số lượng này không đáng kể. Sang thời Hậu Lê thì lực lượng này bị xoá bỏ, chính sách ngụ binh ư nông được áp dụng với cả cấm quân kinh thành.

Thời nhà Mạc chuyển sang áp dụng chế độ lộc điền (hay còn gọi là binh điền). Chế độ này đảm bảo cho những người tham gia vào quân đội, thực hiện các hoạt động trong công việc của đất nước có những quyền lợi và được đảm bảo cho các nhu cầu cơ bản được thực hiện. Chính sách này có những ưu đãi cho lực lượng quân đội với cách lợi ích xác định trực tiếp như đất đai, sản phẩm quý…

Khoảng năm 1790, một dạng của chính sách ngụ binh ư nông cũng được Nguyễn Ánh thực thi ở khu vực Gia Định. Theo đó, Nguyễn Ánh cũng cho huy động binh lính vào việc sản xuất nông nghiệp. Họ cũng vừa tham gia vào chiến đấu, vừa được khuyến khích lẫn bắt buộc cấy cày, sản xuất nông nghiệp để tận dụng những mảnh đất bỏ hoang vì chiến tranh.

Nội dung, Tác dụng của chính sách ngụ binh ư nông

Chính sách “Ngụ binh ư nông” được áp dụng cho các binh lính lao động và sản xuất tại địa phương trong một khoảng thời gian xác định. Điều này có thể gắn với các thực tế của chiến tranh xảy ra. Trong thời bình, các hoạt động sản xuất vẫn được đảm bảo. Chính sách này được áp dụng để xây dựng lực lượng quân sự thời phong kiến ở Việt Nam. Để có thể huấn luyện và nuôi lớn các binh lính, cũng như đáp ứng các nhu cầu cơ bản của họ, sức khỏe của họ phải được đảm bảo để họ có thể phục vụ tổ quốc hiệu quả.

Thế nào là chính sách ngụ binh ư nông?

Từ thời nhà Đinh đến thời Lê sơ, Việt Nam đã áp dụng chính sách xác định và chuẩn bị lực lượng đảm bảo. Nhà Đinh là triều đại phong kiến đầu tiên áp dụng chính sách này. Tuy nhiên, phân bổ và phối hợp của lực lượng được đặt ra linh hoạt để phù hợp với nhu cầu của thời bình và cần thiết cho hoạt động sản xuất.

Nội dung của chính sách ngụ binh ư nông

Cách thức tuyển binh 

Việc tuyển binh được áp dụng khác nhau ở từng giai đoạn và từng loại quân như cấm quân, lộ quân hay phủ quân… Công việc này sẽ do các quan võ ở địa phương đảm nhận, trực tiếp thực hiện dựa trên sổ hộ tịch mà các xã quan lập ra. Hằng năm, các xã quan sẽ có nhiệm vụ lập sổ hộ tịch, tiến hành kiểm kê dân đinh dưới quyền quản lý của mình. Trên cơ sở đó, xã quan sẽ phân dân thành các hạng: tôn thất; quan văn, võ; người hầu hạ; dân lưu xứ; hoàng nam; long não; người tàn tật. Ở thời nhà Lý, những đinh nam từ 18 tuổi trở lên đến tuổi binh dịch được gọi là hoàng nam, từ 20 tuổi trở lên được gọi là đại hoàng nam; thời nhà Trần thì gọi đinh nam từ 18 đến 20 tuổi là Tiểu hoàng nam, từ 20 tuổi trở lên là Đại hoàng nam.

Trong việc tuyển binh, tính quân luật được thực hiện một cách rất nghiêm ngặt để tránh tối đa hiện tượng khai man, bao che, hối lộ để trốn đi lính. Bên cạnh đó, triều đình cũng thường xuyên tiến hành việc thanh tra ở các địa phương để có thể nắm bắt được tình hình, có những phương án chuẩn bị kịp thời phòng cho đất nước xảy ra chiến tranh. Thời nhà Trần, với những đối tượng làm gian sổ hộ tịch để che giấu dân định sẽ bị xử phạt rất nặng, những kẻ đào ngũ có thể bị chặt ngón chân hoặc xử tử như tội phản quốc. Với các trường hợp được miễn quân dịch cũng được quy định cụ thể như: không lấy con trai độc nhất, không lấy con quan từ Bát phẩm trở lên… Cũng bởi sự chặt chẽ này mà quân số được huy động vào mỗi đợt chiến tranh không có sự chênh lệch nhiều với thực tế và sổ sách, góp phần đảm bảo được kế hoạch, phương án đã vạch ra.

Thời Lý

Từ thời Lý, quân đội được xây dựng theo mô hình chính quy và phân cấp. Các giá trị ý nghĩa của việc xây dựng quân đội để thực hiện hiệu quả hơn vẫn được áp dụng đến ngày nay. Quân đội được chia thành quân triều đình và quân địa phương, đảm bảo phân bố lực lượng để bảo vệ các vùng lãnh thổ, bờ cõi và vua. Quân địa phương tuyển chọn những thanh niên khỏe mạnh từ các làng xã trên toàn quốc, tuổi từ 18 tuổi trở lên, để đi lính và canh phòng ở các lộ, phủ. Việc tuyển chọn phải đảm bảo chất lượng của lực lượng phân bổ đều trong cả nước.

Tác dụng của chính sách ngụ binh ư nông? Nội dung và Ý nghĩa? - 6W.com.vn

Triều nhà Lý đã thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”: Quân sĩ được luân phiên về cày ruộng và thanh niên đăng kí tên vào sổ nhưng vẫn ở nhà sản xuất. Khi cần, triều đình sẽ điều động. Điều này giúp khai thác hiệu quả sức mạnh của người lính. Ngoài ra, các công việc nông nghiệp cũng cần nhiều sức mạnh. Khi đó, người lính có thể đảm nhận để mang đến chất lượng hoàn thành công việc tốt hơn. Điều này sẽ giúp tăng gia sản xuất và đạt được hiệu quả cao.

Quân đội được huấn luyện theo nghiêm ngặt với các quy củ và quy định, đảm bảo thực hiện các chế độ rèn luyện sức mạnh và ý chí. Vũ khí trang bị cho quân đội bao gồm giáo mác, đao kiếm, cung nỏ, máy bắn đá và các trang bị hiện đại khác. Để đáp ứng nhu cầu tăng cường sức mạnh và hiệu quả trong chiến tranh.

Các thời vua khác

Thay vào đó, Mạc đã áp dụng chế độ “lộc điền”, để xác định các lợi ích tốt hơn cho những người tham gia vào quân đội. Họ được hưởng các quyền lợi nhằm đảm bảo cho các nhu cầu cơ bản của họ được thực hiện. Trong thời Trần, số lượng quân của các vương hầu không đáng kể. Tuy nhiên, trong thời Hậu Lê, lực lượng này đã bị xoá bỏ và chính sách ngụ binh ư nông đã được áp dụng ở kinh thành. Từ thời Mạc, chế độ “lộc điền” (hay còn gọi là “binh điền”) đã được áp dụng để xác định các lợi ích tốt hơn cho những người tham gia vào quân đội. Họ được hưởng các quyền lợi như đất, sản phẩm quý, để đảm bảo cho các nhu cầu cơ bản của họ được thực hiện.

Phiên cấp quân đội địa phương

Việc phiên cấp quân địa phương (chia phiên và thời gian tập luyện) khá thuần nhất và đóng vai trò nòng cốt trong chính sách “ngụ binh ư nông”. Sau mỗi lần tuyển binh, quân địa phương được chia thành nhiều “phiên” (một phiên là một đơn vị quân, số lượng tuỳ vào từng địa phương, cốt lấy người khỏe mạnh đủ có thể tham gia quân ngũ[5]). Các phiên sẽ thay nhau tập trung tập luyện tại doanh trại trong một khoảng thời gian nhất định. Mỗi tháng sẽ tiến hành đổi phiên một lần. Việc thay phiên thường được thực hiện vào mồng Một hoặc ngày Rằm. Như vậy trong thời bình, binh lính chia nhau vừa sản xuất nông nghiệp ở địa phương vừa tập luyện ở doanh trại.[6]

Tác dụng của chính sách ngụ binh ư nông

Nhu cầu bảo vệ đất nước và bảo vệ chính quyền cai trị cần một lực lượng quân đội hùng hậu. Tuy nhiên, nhu cầu nhân lực để sản xuất nông nghiệp cho đời sống cũng rất lớn. Vì vậy việc đưa quân về địa phương luân phiên cày cấy giúp lực lượng này tự túc được về lương thực, bớt gánh nặng về lương thực nuôi quân cho triều đình[7].

Ngụ binh ư nông là việc liên kết hài hoà giữa việc quân sự và nông nghiệp, giữa kinh tế và quân sự, chuyển hóa nhanh từ thời bình và sang thời chiến khi cần. Nhờ chính sách này, triều đình có được lực lượng quân đội hùng mạnh, đông đảo trong khi sản xuất nông nghiệp vẫn được duy trì. Thời Lý có số quân tham chiến chống nhà Tống khoảng 10 vạn người[8], thời Trần khi có chiến tranh chống quân Nguyên có hơn 20 vạn quân[3], sang thời Lê sơ khi có chiến tranh có thể huy động 26-30 vạn quân[9].

Chính sách ngụ binh ư nông phản ánh tư duy nông binh bất phân (không phân biệt quân đội và nông dân), đâu có dân là đó có quân, phù hợp với điều kiện xây dựng nền quốc phòng của một nước đất không rộng, người không đông, cần phải huy động tiềm lực cả nước vừa sản xuất, vừa đánh giặc[10].

Tới những thời đại sau thời Lê sơ, chính sách này không còn được áp dụng do tình trạng cát cứ và chiến tranh triền miên trong cả nước. Ngay như thời Tây Sơn, thời đại mà trình độ quân sự phát triển rất cao, yêu cầu tác chiến thường xuyên không cho phép những người lãnh đạo duy trì chính sách này.

Ý nghĩa của chính sách ngụ binh ư nông

Chính sách ngụ binh ư nông có ý nghĩa trong việc đảm bảo được lực lượng tham gia sản xuất vào thời bình, nhưng khi chiến tranh xảy đến hay triều đình cần sử dụng binh lính thì đều có thể đáp ứng được ngay. Điều này bởi các hoạt động trong thời bình chỉ cần một số lượng binh lính ổn định, thế nhưng trong thời chiến lại cần số lượng lớn binh lính, thậm chí càng nhiều thì càng góp phần đảm bảo được lực lượng. Do vậy chính sách này đáp ứng được nhu cầu với từng giai đoạn của đất nước, vừa gia tăng được sản xuất kinh tế, vừa đảm bảo được số lượng binh lính có thể huy động khi cần thiết.

Ngụ binh ư nông là một chính sách thể hiện sự liên kết chặt chẽ, hài hòa giữa việc quân với nông nghiệp, giữa kinh tế với quân sự, có thể chuyển hoá nhanh từ thời bình sang thời chiến khi cần thiết. Việc đưa quân về địa phương luân phiên tăng gia sản xuất cũng giúp lực lượng này tự túc được nguồn lương thức, giảm bớt gánh nặng về lương thực nuôi quân triều đình cho nhân dân.

Chính sách này có tác dụng đảm bảo sự ổn định của lực lượng tham gia sản xuất trong thời bình, và có thể đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của đất nước trong thời chiến. Nó cũng khuyến khích phát triển nông nghiệp và liên kết hài hòa giữa quân sự và nông nghiệp.

Có thể thấy, bảo vệ đất nước và chính quyền cần một lực lượng quân đội hùng hậu. Tuy nhiên, nhu cầu nhân lực để sản xuất nông nghiệp cho đời sống cũng rất lớn. Và giặc đói, giặc dốt cũng nhiều hơn khi không đảm bảo lương thực và phát triển đất nước. Do đó, khôi phục, ổn định và phát triển sản xuất được xác định là một vai trò quan trọng. Vậy, việc đưa quân về địa phương luân phiên cày cấy sẽ giúp lực lượng này tự túc được về lương thực, giảm gánh nặng về lương thực nuôi quân cho triều đình. Điều này cũng sẽ ổn định diễn biến đất nước và đảm bảo giá trị và sức mạnh của quân đội trong tất cả các hoạt động.

Tác dụng của chính sách ngụ binh ư nông ở thời kỳ phong kiến

Chính sách Ngụ Binh Ư Nông là một biểu tượng của tình quan hệ quân dân thắm thiết. Việc hợp tác và cùng nhau thực hiện công việc chung của đất nước đã góp phần lớn vào thành công của quân đội Việt Nam trong những trận chiến lớn. Đoàn kết của nhân dân là sức mạnh lớn nhất giúp ta chiến thắng được giặc xâm lược. Chính sách này cũng là một phương án thông minh để đảm bảo quân số và cung cấp lương thực cần thiết cho quân đội, đồng thời duy trì các cuộc đánh lâu dài. Ngoài ra, các dự trữ cũng là cần thiết để chuẩn bị cho các giai đoạn khó khăn trong tương lai. Chính sách này cũng giúp bộ đội rèn luyện tinh thần thích ứng với mọi điều kiện khó khăn. Người lính cũng được đảm bảo về chất lượng ăn uống trong thời gian tham gia chiến đấu, để có được sức khỏe và sức mạnh thể hiện tinh thần dân tộc.

Chính sách này có tác dụng đảm bảo lực lượng tham gia sản xuất trong thời bình. Nhưng khi có chiến tranh hay bất cứ khi nào triều đình cần đều có thể đáp ứng ngay. Bởi các hoạt động trong thời bình chỉ cần số lượng binh lính ổn định. Trong khi thời chiến lại cần rất nhiều, thậm chí là càng nhiều càng đảm bảo lực lượng. Do đó mà để đảm bảo các công việc và nhu cầu được triển khai hiệu quả. Mang đến đáp ứng cho các nhu cầu với giai đoạn của đất nước mà chính sách này có ý nghĩa lớn.

Ngụ binh ư nông là việc liên kết hài hòa giữa việc quân sự và nông nghiệp, giữa kinh tế và quân sự. Chuyển hóa nhanh từ thời bình và sang thời chiến khi cần. Và với khó khăn bấy giờ của đất nước ta, các nhu cầu trong phát triển nông nghiệp được khuyến khích thúc đẩy.

Có thể thấy nhu cầu bảo vệ đất nước và bảo vệ chính quyền cai trị cần một lực lượng quân đội hùng hậu. Tuy nhiên, nhu cầu nhân lực để sản xuất nông nghiệp cho đời sống cũng rất lớn. Và giặc đói, giặc dốt cũng nhiều hơn khi không đảm bảo lương thực và phát triển đất nước. Do đó mà khôi phục, ổn định và phát triến sản xuất cũng được xác định là một vai trò vô cùng quan trọng.

Vì vậy việc đưa quân về địa phương luân phiên cày cấy giúp lực lượng này tự túc được về lương thực, bớt gánh nặng về lương thực nuôi quân cho triều đình. Cũng như ổn định cho các giai đoạn thực tế của diễn biến đất nước. Đồng thời ngày càng đảm bảo trong giá trị và sức mạnh của quân đội trong tất cả các hoạt động.

Thể hiện quan điểm nông binh bất phân không phân biệt quân đội và nhân dân, ở đâu có dân là ở đó có quân. Phù hợp với điều kiện xây dựng nền quốc phòng của một đất nước không rộng, người không đông. Cần phải huy động tiềm lực cả nước vừa sản xuất vừa đánh giặc.

Chính sách ngụ binh ư nông thể hiện tình quân dân thắm thiết. Việc kết hợp cũng như cùng nhau hợp tác thực hiện công việc chung của đất nước được tiến hành. Đây cũng chính là yếu tố quan trọng giúp quân đội Việt Nam chiến thắng những trận đánh lớn. Đoàn kết là sức mạnh lớn nhất giúp nhân dân ta chiến thắng được giặc xâm lược.

Ngoài ra chính sách này là nước đi thông minh. Vừa đảm bảo quân số vừa đảm bảo lương thực cần thiết để duy trì quân số, duy trì cho các cuộc đánh lâu dài. Khi các dự trữ là cần thiết với các giai đoạn khó khăn tương lai được xác định. Giúp bộ đội rèn luyện tinh thần thích ứng với mọi điều kiện khó khăn. Với thời gian tham gia chiến đấu, người lính cần được yên tâm với chất lượng ăn uống. Từ đó có được sức khỏe và sức mạnh thể hiện tinh thần dân tộc.

5. Ưu điểm của chính sách ngụ binh ư nông

Chính sách ngụ binh ư nông là một chính sách đầy sáng tạo và thông minh, phù hợp với tình hình đất nước trong thời kì bấy giờ. Chính sách này có một số những ưu điểm phải kể tới như sau:

– Chính sách ngụ binh ư nông trước hết thể hiện một nước đi đầy thông minh, có thể vừa đảm bảo được quân số, vừa đảm bảo được lương thực cần thiết để duy trì khi xảy ra các cuộc chiến tranh kéo dài, giúp binh lính của ta thích ứng được với các hoàn cảnh khác nhau, cả ở thời bình lẫn thời chiến

– Thể hiện một quan điểm nông binh bất phân không phân biệt quân đội với nhân dân, ở đâu có dân ở đó sẽ có quân và ngược lại. Điều này phù hợp với việc xây dựng nền quốc phòng của một quốc gia không rộng lớn, lực lượng mỏng lại cần huy động cả tiềm lực sản xuất và đánh giặc

– Chính sách này cũng thể hiện tình quân dân thắm thiết – là một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên những thắng lợi trong các trận đánh. 

Hy vọng bài viết trên của 6W đã cung cấp cho quý bạn đọc những kiến thức hữu ích, trân trọng cảm ơn quý bạn đọc đã quan tâm theo dõi!